Văn Huy Nguyễn (阮紋翬) Ở về bên phải tỉnh lộ 10 hướng TP.HCM – Đức Hòa, cách ngã tư Đức Hòa 300m , có con lộ đá trải nhựa thâm nhập rộng 3m, chạy quanh quanh vào một thôn xóm có nhà dân khoảng 500m là đến cổng chùa Linh Nguyên.
Chùa Linh Nguyên tọa lạc trên mặt bằng một gò đất rộng cao hơn 1m so với mặt ruộng ở ấp Bình Tả 1, xã Đức Hòa Hạ, huyện Đức Hòa, tỉnh Long An. Các nhà khảo cổ cho biết vùng đất này từng là vị trí của một công trình kiến trúc tôn giáo thuộc văn hóa Óc Eo.
Theo tư liệu của chùa, chùa Linh Nguyên do Thiền sư Hải Tịnh, gia phổ đời thứ 37 thuộc phái Thiền Lâm Tế dòng Đạo Bổn Nguyên khởi dựng năm 1820, Buổi đầu chùa chỉ là một thảo am. Thiền sư cho biết trong số các tăng sỹ cùng tu tại am tự này, có một đệ tử pháp danh Minh Nguyên rất thông minh và có “tánh linh”. Được sự giúp đỡ của bổn đạo và bá tánh, am tự trở thành ngôi chùa khang trang hơn nên Thiền sư có ý định đặt tên chùa. Thiền sư bèn lấy chữ “Linh” và chữ “Nguyên” ghép lại thành hai chữ LINH NGUYÊN đặt cho tên chùa với ngụ ý nhờ vào sự linh hiển của chư Phật, chùa Linh Nguyên sẽ được tồn tại ở vùng đất mới và là nơi linh thiêng để bá tánh được các vị hòa thượng trụ trì hướng dẫn tu hành.
Thiền sư Hải Tịnh (1788 – 1875) từng là trụ trì đời thứ 2 chùa Giác Lâm - một ngôi chùa cổ nhất ở Thành phố Hồ Chí Minh.
Chùa Linh Nguyên qua tám đời khai sáng truyền thừa, đến nay vẫn giữ được nét cổ kính mang phong cách và giá trị thời đại. Nhìn từ ngoài, chùa Linh Nguyên được ôm lấy bởi tán lá cổ thụ. Thấp thoáng xung quanh chùa là những ngôi mộ tháp của các vị sư trụ trì và những tăng sĩ đã tu hành ở đây làm cho ngôi chùa có vẻ u tịch, cổ kính.
Ngôi chùa ở về phía trái cổng tam quan. Sân chùa lát gạch tàu. Nhìn từ chính diện, khách hành hương không thấy có tượng Phật, bảng hiệu chữ Hán hay chữ Việt như ở các ngôi chùa khác. Mặt tiền chùa thể hiện nhiều nét giao lưu văn hóa qua lối trang trí đắp nổi dạng đầu cột, dây lá phong cách phương Tây, trông như một ngôi nhà xưa của các ông cai tổng, hương cả hay phú ông ở thôn quê thuở trước, có hành lang phía trước và hai bên, phần kiến trúc trông rất nghệ thuật nhờ các bệ lan can có nhiều gối đở hình cách điệu xinh xắn cùng các bao lơn hình cánh cung và các cột gạch có đắp phù điêu hoa văn, phối hợp cân đối, tạo thành nét đẹp hài hòa thanh nhã.
Nhưng khi vào bên trong mới thấy lối bày trí thờ phượng vô cùng trang nghiêm của một ngôi chùa. Về bày trí và thờ tự, chùa có 31 pho tượng bằng gỗ mít, 3 tượng thếp vàng, còn lại là sơn nhựa thông có niên đại thế kỷ XIX đầu XX, được bố trí theo công thức tiền phật hậu tổ. Tại Chánh điện, bộ Tam thế ở trung tâm được bố trí theo chiều dọc từ trên xuống gồm tượng A Di Đà, Bổn sư Thích Ca Mâu Ni và Di Lặc. Hai bên tượng A Di Đà là tượng Quan Âm và tượng Thế Chí. Các tượng Thiện Hữu Thiện Báo và Ác Hữu Ác Báo bố trí ở hai bên tượng Thích Ca. Phía dưới bộ Tam Thế là tượng Ngọc Hoàng, Nam Tào, Bắc Đẩu. Dưới cùng là bàn Tam bảo bố trí 5 tượng theo chiều ngang gồm Phật Thích Ca và bốn vị Bồ tát trong tư thế “thượng kỵ thú” đang ở tinh thần nhập thế. Đối diện Chánh điện là tượng Tiêu Diện, Hộ Pháp, giữa là Địa Tạng ở dạng tranh. Dọc hai bên chánh điện là hai bộ tượng Thập Điện Diêm Vương. Sau vách ngăn Chánh điện là bàn thờ Tổ đặt 8 linh vị chạm nổi sơn son thếp vàng cùng 6 dỉ ảnh của các vị trụ trì. Nhà Cầu đặt một pho tượng Chuẩn Đề 18 tay và tượng Thiên Thủ - Thiên Nhãn bằng gỗ mít. Chùa còn có hai chuông đồng, một chuông lớn có niên đại Quý Mão niên (1843) và một chuông nhỏ đầu thế kỷ XX, một bộ trường kỷ chạm lộng các đề tài “hoa điểu” và 2 bộ bàn dài chạm nổi chân móng, song tiện ở niên đại từ đầu đến giữa thế kỷ XX).
5 /5
Trần Trọng Hữu Nơi này mới làm lại. Rất đẹp.
5 /5
Ho Phuong Chùa rất rộng, đẹp, an nhiên. Có nghĩa trang sau Chùa, anh rể mình an nghỉ tại đây.
4 /5
Minh Thuận Vừa rộng rãi lại còn thanh tịnh, rất muốn quay lại đầy nhiều lần nữa/
5 /5